Đọc Aristotle: Eudaimonia hay mục đích tối hậu của đời người

Aristotle mở đầu cuốn Đạo đức học rằng: “Mọi kỹ nghệ và mọi ngành học, cũng như mọi hành động và quyết định, dường như đều hướng đến một điều tốt đẹp nào đó – vì thế, một số người đã đúng khi coi điều tốt đẹp là điều mà mọi thứ đều hướng đến”. [1]

Thoạt nghe điều này có vẻ mang tính giáo huấn, song chẳng phải mọi điều ta làm đều vì một mục đích mà ta coi là tốt ư? Ta làm điều này vì muốn có của ăn của để, làm điều kia vì muốn khoẻ mạnh, làm điều nọ vì muốn thành danh – tất cả những mong muốn ấy đều được chúng ta coi là tốt đẹp.

Ngay cả người làm điều tàn nhẫn cho vui, họ không hành động vì bản thân sự tàn nhẫn, mà vì họ tìm thấy niềm vui trong hành động đó. Họ coi niềm vui ấy là một điều tốt và hành động để đạt được nó. Điều này cho thấy: cái xấu tự nó không có sức thuyết phục để được chọn. Cái xấu không thể đứng một mình, nó cần được biện minh bởi một điều tốt khác, dù là cái tốt bề ngoài hay cái tốt thực sự.

Như thế, trong mọi trường hợp, ta đều theo đuổi một cái gì đó được coi là tốt (như của cải, sức khỏe, khoái lạc, danh dự…), tức là, ta không hành động một cách ngẫu nhiên. Mỗi hành động chúng ta làm thực chất chỉ nhằm phục vụ cho một mục đích khác. Các mục đích ấy không đứng riêng rẽ mà sắp xếp thành một hệ thống trật tự thứ bậc: có những mục đích chỉ là phương tiện (bậc dưới), và có những mục đích cao hơn (bậc trên) mà ta thực sự muốn đạt tới. Cũng giống như, ta đi học để làm gì? Để hiểu biết. Hiểu biết để làm gì? Để có thể đi làm kiếm tiền. Nhưng kiếm tiền để làm gì? Và rốt cuộc, ta làm tất cả những điều này vì cái gì?

Nếu mọi mục đích đều chỉ để phục vụ một mục đích khác nữa, thì sẽ không còn gì thực sự đáng để lựa chọn. Để tránh vòng lặp vô hạn rỗng nghĩa, tất yếu phải có một mục đích cao nhất – tức mục đích tối hậu (telos) – được ước ao chỉ vì chính nó. Mục đích ấy phải là thứ tự thân đã đủ tốt, đến mức không cần phải viện dẫn thêm một lý do nào khác để theo đuổi. Và vì mọi điều con người làm đều hướng tới những gì được coi là tốt đẹp, nên mục đích tối hậu ấy chính là điều tốt đẹp nhất (to agathon).

Người đời thường đồng thuận rằng cái tốt đẹp nhất này có thể gọi bằng những từ như hạnh phúc, mãn nguyện, hay như Aristotle gọi là eudaimonia – đời sống viên mãn. Nhưng xin lưu ý cho, ở đây, cách dùng từ không quá quan trọng, mà điều cốt lõi là: thứ gì làm nên cái tốt đẹp nhất ấy? Đâu mới là điều làm nên một cuộc sống hạnh phúc hay viên mãn? Trước những câu hỏi này, Aristotle không cho ta một mệnh lệnh hay lời khuyên giản đơn theo dạng “cuộc đời viên mãn là…” hay “con người nên…”, mà ông dùng lập luận để xác định xem cái gì mới thực sự xứng đáng để con người theo đuổi, từ đó quy về mục đích tối hậu của đời người. Đây chính là nội dung xuyên suốt trong cuốn Đạo đức học của ông.

Để tìm hiểu thế nào là điều tốt đẹp thực sự, trước tiên ta hãy xem xét ví dụ về một con dao tốt.

Con dao tồn tại để làm việc mà những công cụ khác như rìu, cưa, liềm,… không làm được – vì nếu rìu, cưa, liềm đã làm được hết rồi thì con dao còn tồn tại làm gì nữa! Con dao khác biệt ở chỗ nó có thể dùng để cắt gọt một cách linh hoạt, nhanh nhạy, chính xác. Ta gọi việc cắt gọt này là chức năng đặc trưng (ergon) của con dao. Ta thường nghe câu “nhất nghệ tinh, nhất thân vinh”, thà giỏi hẳn một việc nào đó, làm cho thành thục, vững vàng, làm đến nơi đến chốn, còn hơn biết qua loa nhiều thứ nhưng không tinh thông một cái gì. Không ai đánh giá một con dao bằng cách xem xét nó có thể dùng để chặt củi, xẻ gỗ, hay gặt lúa được hay không. Thay vào đó, người ta sẽ nhìn vào chức năng đặc trưng của con dao, rằng nó có thể cắt gọt được hay không.

Nhưng chỉ cắt gọt được thôi thì chưa đủ. Lưỡi của nó phải sắc bén để có thể cắt gọt gọn gàng, cán của nó cần cân đối để có thể điều khiển linh hoạt. Đây chính là những phẩm chất ưu việt (aretē) của con dao, giúp cho nó thực hiện chức năng cắt gọt một cách tốt nhất. Ta cần lưu ý ở điểm này, rằng dù chức năng của con dao được thực hiện nhờ lưỡi dao, song phần cán vẫn rất quan trọng để phần lưỡi có thể làm tốt việc của mình. [2] Và tất nhiên, con dao ấy còn phải được đem ra sử dụng, chứ nếu cất mãi trong tủ thì cũng thành đồ vô dụng. Thêm vào đó, nếu con dao tuy rất sắc bén và cân đối nhưng chỉ cắt được một vài lần rồi bị cùn hoặc vênh thì không được coi là con dao tốt.

Sự tốt đẹp là như thế: một cái gì đó được coi là tốt thực sự khi nó thực hiện chức năng đặc trưng của nó một cách xuất sắc, theo đúng những phẩm chất ưu việt, và duy trì được điều đó trong đời sống thực tiễn. Điều gì không gắn với chức năng đặc trưng ấy thì không phải cái tốt thực sự; nếu trông có vẻ tốt thì cũng chỉ là cái tốt bề ngoài.

Vậy thì, khi xem xét sự tốt đẹp thực sự nơi đời sống con người, câu hỏi tiếp theo sẽ là: chức năng đặc trưng của con người là gì?

Ta hãy nhìn vào con người như một sinh vật sống, bên cạnh một cái cây và một con bò. Cả ba sinh vật này giống nhau ở chỗ nào? Đó là cái cây, con bò, và con người đều sinh trưởng và đều cần dinh dưỡng. Nhưng con bò và con người khác cái cây ở chỗ có giác quan, có dục vọng. Và con người lại khác con bò ở chỗ: chỉ con người mới có phần lý trí của linh hồn (to logikon). Chính hoạt động lý trí của linh hồn là chức năng đặc trưng (ergon) của con người, giúp phân biệt con người với các loài sinh vật khác. Do đó, điều tốt đẹp của con người không nằm ở chức năng dinh dưỡng (như cái cây), cũng không nằm ở cảm giác và ham muốn (như con bò), mà nằm ở việc thực hành các hoạt động lý trí một cách xuất sắc.

Thêm vào đó, con người phải đem chức năng này vào thực tiễn, hiện thực hoá nó bằng hành động. Aristotle dẫn ra ở đây một so sánh thú vị: “cũng giống như tại các kỳ Thế vận hội, không ai đi trao vòng nguyệt quế cho những người đẹp đẽ hay cường tráng nhất có mặt ở đó, mà chỉ trao cho những người trực tiếp tham gia tranh tài – bởi vì chỉ trong số đó mới có kẻ chiến thắng.” [3]

Dòng lập luận trên chính là cách Aristotle xác định cái tốt đẹp nhất, hay mục đích tối hậu của đời người. Không phải của cải hay danh dự, vì những thứ này chỉ là phương tiện chứ không phải mục đích sau cùng. Không phải chỉ để tồn tại (như cây cỏ) hay để có cảm giác khoái lạc (như loài vật), vì những “cái tốt” ấy không gắn với chức năng đặc trưng của con người. Thay vào đó, mục đích tối hậu của đời người là sống viên mãn, tức là: hoạt động lý trí của linh hồn theo những phẩm chất ưu việt, được duy trì bền vững xuyên suốt trong một cuộc đời trọn vẹn.

Từ đây nảy sinh những câu hỏi quan trọng khác:

  • Hoạt động lý trí của con người gồm những năng lực nào?
  • Đâu là những phẩm chất ưu việt để con người có thể thực hành phần lý trí của mình một cách tốt nhất?
  • Những phẩm chất ấy có phải do tự nhiên ban tặng, hay con người phải rèn luyện và học hỏi để có được?
  • Sống đời viên mãn có vui sướng không, có gì khổ sở không, có bình an không?
  • Nếu hoạt động lý trí phải kéo dài “suốt một đời trọn vẹn”, thì những điều kiện bên ngoài (như sức khỏe, bạn bè, của cải, cộng đồng) có ảnh hưởng ra sao đến cuộc đời viên mãn?

Trong các bài viết tiếp theo, chúng ta sẽ lần lượt xem xét những câu hỏi trên.

Chú thích:

[1] Cuốn I chương 1, 1094a, dịch từ bản Aristotle. Nicomachean Ethics. Translated by Terence Irwin. 3rd ed. Indianapolis: Hackett Publishing Company, Inc., 2019.

[2] Chữ aretē này thường được dịch trong tiếng Anh là “excellence” hay “virtue”, dịch tiếp sang tiếng Việt là “đức hạnh”, thường dễ gây hiểu nhầm. Aretē không đơn thuần là phẩm chất đạo đức, mà là sự xuất sắc theo bản tính, và nó được dùng cho cả người và vật.

[3] Cuốn I chương 8, 1099a, dịch từ bản Aristotle. Nicomachean Ethics. Translated by Robert C. Bartlett and Susan D. Collins. Chicago: University of Chicago Press, 2011.

[4] Bài viết này là mở rộng khái niệm eudaimonia mà tôi đã nhắc đến trong một bài viết trước, vốn tập trung vào khái niệm trí đức (phronesis), bản tiếng Anh ở đây và bản tiếng Việt (dịch từ bản tiếng Anh) ở đây. Tôi cũng đã soạn một bảng thuật ngữ tiếng Hy Lạp/tiếng Anh/tiếng Việt cho dễ đối chiếu ở đây.